Hơn cả “phù thủy” âm thanh khi không chỉ dồn
nén vào trong tiếng đờn chân chất, mộc mạc những cung bậc bổng - trầm kiêu sa,
đài các... ông còn tự tay luyện thanh cho nhiều nhạc cụ xưa, khiến chúng thay
da đổi thịt.

Nhạc sư Vĩnh Bảo (phải sang) cùng nhạc sĩ Phạm
Duy, GS.TS Trần Văn Khê biểu diễn nhạc cụ dân tộc tại ĐH Illinois (Mỹ) vào năm
1971. Ảnh: Chụp lại ảnh tư liệu tại Nhà lưu niệm nhạc sư Vĩnh Bảo.
“Phù thủy” âm thanh
“Tôi học đờn (đàn) từ
5 năm tuổi như sự thôi thúc không cưỡng lại được..”- trong căn nhà yên tĩnh nằm
bên rạch Cái Sâu (TP.Cao Lãnh) do lãnh đạo tỉnh Đồng Tháp vận động doanh nghiệp
cùng gia đình chung tay xây dựng, nhạc sư Vĩnh Bảo (Nguyễn Vĩnh Bảo), đã hấp
dẫn tôi ngay từ lời mở đầu. Đã bước qua tuổi 103 (sinh năm 1918), tuy sức khỏe
bắt đầu có “vấn đề” nhưng ông vẫn mẫn tiệp. Cả thế giới xưa hừng hực hiện về...
Buổi đầu đến với âm nhạc của ông chỉ là những phút rón rén chạm vội bàn tay vào
những sợi dây đờn của thân phụ treo trên vách nhà. Bởi cha ông - một Đông y sĩ
sành nhiều loại đờn: Tranh, cò, gáo... không thích con cái mê đờn mà chểnh mảng
chuyện học hành. Nhưng ông đâu biết rằng, những cuộc trao đổi, diễn tấu của
nhiều thầy tuồng, thầy đờn tìm đến nhà hàn huyên như hạt giống quý, gieo mầm
vào tâm hồn, nuôi dưỡng và thôi thúc người con trai thứ 9 trong nhà gắn chặt
cuộc đời với thế giới ngũ cung với “Hò, xự, xang, xê, cống”. Nhờ đó, năm lên
10, cậu bé Vĩnh Bảo của làng Mỹ Trà, Cao Lãnh xưa không chỉ thành thạo nhiều
nhạc cụ dân tộc như đờn đoản, đờn kìm, đờn gáo... mà còn bén duyên với nhiều
nhạc cụ phương Tây như mandolin, piano, violon... Đặc biệt với tinh thần cầu
tiến, trong suốt hành trình rong ruổi âm nhạc, ông đã học hơn 200 thầy theo
hình thức “nhất tự vi sư, bán tự vi sư”... cộng với năng khiếu thiên bẩm, ông
đã tạo dựng cho mình lối đi riêng cho mình. Vì vậy, khi mới 20 tuổi (1938), ông
đã được hãng đĩa BEKA mời cùng hòa tấu cho cô Ba Thiệt (chị của danh ca cô Năm
Cần Thơ). Từ đó, uy tín ông ngày một vang vội...
Lần đầu tiên, tôi được
trực tiếp nghe tiếng đờn của nhạc sư là lúc ông “hồi hương” ở tuổi 100. Và cũng
như nhiều người, tôi đã không khỏi nao lòng khi tận mắt thấy bàn tay hằn sâu
vết thời gian thế kỷ đã nhấm, đã vuốt, rồi mổ... lên sợi tơ mỏng mảnh tạo ra
thanh âm đầy nội lực và ma thuật. Dường như những trải nghiệm từ hành trình đến
nhiều quốc gia trên thế giới học tập, nghiên cứu âm nhạc kết hợp với những sự
nhạy cảm của chất nghệ sĩ đã ngấm vào từng hơi thở... đã hun đúc ông thành “phù
thủy” âm thanh. Những ngón tay tưởng chừng như mệt nhoài theo năm tháng, bỗng
trở nên lả lơi lên những cung bậc bổng - trầm... tạo ra tiếng đàn chân chất,
mộc mạc nhưng lại toát lên nét kiêu sa, đài các... đưa người nghe đến thế giới
sâu lắng nhất để buồn, để vui, để cho đi và nhận lại... Chính vì thế, cả người
thuộc hàng “quái kiệt” âm nhạc như GS.TS Trần Quang Hải (con trai GS.TS Trần
Văn Khê) cũng không tiếc lời tôn vinh tiếng đờn của ông sư là “độc nhất vô nhị”:
“Tôi biết đờn tranh và có dịp nghe nhiều thế hệ biểu diễn, nhưng chưa nghe ai
có ngón đờn sang trọng, đài các như ngón đờn của nhạc sư Vĩnh Bảo” - ông Hải
nói.
“Luyện thanh” mới cho
đờn xưa
Tuy nhiên, điều ông
khiến giới đờn ca dân tộc và nghiên cứu âm nhạc trên thế giới tôn vinh thành
“di sản sống” chính là khả năng “luyện thanh” cho nhiều loại đờn từng được xem
như “khung vàng, thước ngọc” cất giọng mới da diết, hút hồn hơn. Đình đám nhất
là kỳ công biến cây đờn tranh 16 dây sau nhiều thế kỷ du nhập đã nói thứ tiếng
Việt mới. “Nói đúng hơn là đáp ứng được sự hòa quyện thanh tao giữa âm nhạc với
ngữ điệu phương ngôn và sự tinh tế trong kết hợp đa dạng và phong phú giữa điệu
- hơi - rung - nhấn - mổ trên các cung bậc trong từng bài bản cổ nhạc”- ông 5 Suôl
, một “thầy đờn” trứ danh ở An Giang, nhận xét.
“Trong dịp “khám phá”
cây đàn piano, đầu tôi hé ra hướng đi”- ông chia sẻ. Tận dụng lợi thế thông
thạo nhiều ngoại ngữ, ông tham khảo nhiều nguồn tài liệu... rồi tự bỏ tiền túi
ra mua gỗ về tự tay thực nghiệm. Sau 4 năm ròng rã cưa, bào, đục, cắt... thất
bại nối tiếp thất bại. Và đã không ít lần chuyện “cơm áo gạo tiền” suýt đo ván,
nhưng chính động lực muốn có nhạc cụ diễn đạt tốt hơn nữa sự tinh tế và sâu sắc
âm nhạc truyền thống Việt, đã giữ chân ông lại. Năm 1955, nhạc sư cho ra đời
cây đàn tranh 17 dây. Chính sự hiểu biết tinh tường từng bộ phận trong cây đờn
và sự tinh tế trong phối hợp các bộ phận bổ sung cho nhau của người hội tụ kỹ
năng “4 trong 1” (rành nghề mộc, am tương kiến thức vật lý, đặc tính gỗ và kỹ
năng thẩm âm tinh tế) đã giúp ông “lột xác” cây đàn cổ. Không chỉ khác lạ ở chỗ
thêm 1 dây (xàng) mà cách sắp xếp dây cũng cũng biến tấu khác lạ theo khả năng
thẩm âm riêng của ông... Mặt đàn lài hơn, kích thước thân và độ dầy mỏng giữa
đáy đàn và mặt đàn cũng có sự thay đổi. “Đáy đờn là bộ phận phản xạ âm thanh,
nếu dày hơn mặt đờn sẽ cho ra âm thanh sáng chói và trong suốt. Nhưng đó không
phải là mặt phẳng đồng dạng. Có khi phải cho mặt và đáy đờn dày ở giữa rồi mỏng
ra 2 bìa, hoặc ngược lại...”- ông đã làm tôi tôi choáng với kiến thức sóng âm
của từng đặc tính gỗ. “Trước đây, đóng đờn bằng cây ngô đồng, cây tung, nhưng
qua nghiên cứu, thấy gỗ Kiri của Nhật vừa có sớ vân rất đẹp, vừa có tính năng
phát huy âm lượng”. Ông cũng thay thế chất liệu làm “con nhạn” (giữ dây đờn) từ
ngà/xương động vật, vừa khó tìm, vừa hãm thanh sang làm bằng danh mộc, vừa bền
vừa có tác dụng tăng âm lượng. Mặt khác, việc cải tiến nhạn và trục vững vàng
của ông còn giúp cho người đờn không cần phải lên dây lại khi chuyển từ bản này
sang bản khác như cây đờn 16 dây... Những thay đổi này đã giúp cho đờn tranh 17
dây có âm lượng vang hơn, âm sắc mượt mà ngọt ngào và đa dạng hơn so với “tiền
thân”. Tuy nhiên, khi mới ra đời, đứa con tinh thần của ông đã đón nhận không
ít búa rìu dư luận. Có lẽ đã quá quen mặt với cái cũ, nên nhiều người xem cây
đàn 17 dây của ông như “khuyết tật” của ngón thứ 6 trong bàn tay con người.
Nhưng thực tế sử dụng và cách ứng xử tinh tế với dư luận của ông không chỉ dần
dần chinh phục được dư luận, mà còn được giới nghiên cứu đánh giá rất cao.
Trong công trình
nghiên cứu được công bố tại nhiều hội thảo và phương tiện truyền thông quốc tế,
GS.TS Nguyễn Thuyết Phong (ĐH Washington) khẳng định: Tần số dao động rộng, độ
trong, độ dài âm thanh của cây đàn tranh 17 dây tốt hơn so với nhiều loại đàn
có điểm tương đồng là Koto (Nhật), Kayageum (Hàn Quốc) và Guzheng (Trung Quốc).
Sinh thời, GS.TS Trần Văn Khê - cây đại thụ của âm nhạc dân tộc và thế giới -
đã xem cải tiến này “làm rạng danh nghề chế nhạc khí Việt Nam”. Sau đó, nhạc sư
còn cải tiến đàn tranh lên 19 rồi 21 dây. Trước đó, ở tuổi trăng tròn, ông đã
làm chấn động giới thầy đờn trong nước khi sáng chế ra dây Tỳ và dây Xề cho cây
đàn Gáo được sử dụng hiện nay.
Chắp cánh cho âm nhạc
miệt vườn ra biển lớn
Ngày 5.12.2013, tại
Hội nghị Ủy ban Liên chính phủ lần 8 tại Baku (Cộng hòa Azerbaijan) UNESCO
chính thức công nhận nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ (ĐCTTNB) là Di sản văn hóa
phi vật thể của nhân loại (DSVHPVTCNL). Điều này cho thấy, thế giới đánh giá rất
cao loại hình nghệ thuật dân gian đặc trưng Nam Bộ, mà nhạc sư là một những
người bền bỉ đặt nền. Ngoài vai trò đào tạo ra nhiều thế hệ nghệ sĩ với tư cách
là Trưởng Ban giáo sư âm nhạc cổ truyền miền Nam tại Trường Quốc gia âm nhạc
(Sài Gòn), hơn nửa thế kỷ qua, ông miệt mài tận dụng mọi cơ hội “du thuyết” để
đưa ĐCTTNB ra nhiều quốc gia trên thế giới. Năm 1971, khi được Đại học Southern
Illinois (Mỹ) mời sang dạy nhạc cổ truyền Việt Nam với tư cách là giáo sư biệt
thỉnh, ông đã tận dụng cơ hội để giới thiệu tinh hoa âm nhạc dân tộc ra thế
giới. Và cũng với tâm thức đó, năm 1972, ông tiếp tục nhận lời mời của Trung
tâm Nghiên cứu nhạc Đông Phương và Trung tâm Âm thanh học sang Pháp thuyết
trình, trao đổi về ĐCTTNB. Không chỉ trực tiếp biểu diễn nghệ thuật đóng đờn
theo phương thức ông sáng tạo... nhạc sư còn tận dụng thời cơ để cùng GS.TS
Trần Văn Khê thực hiện đĩa hát về nghệ thuật ĐCTTNB với hãng đĩa OCARA và đĩa
Viet Nam II... Những hoạt động này cùng với hành trình diễn thuyết, biểu diễn
tại nhiều quốc gia Mỹ, Pháp, Nhật, Singapore... cũng như với khả năng “nói
tiếng Anh như nhà khoa học và nói tiếng Pháp như nhà thơ”, ông đã tận tình dạy
và hướng dẫn người nước ngoài học đàn tranh và hoàn thành nhiều luận án tiến sĩ
về ĐCTTNB để bạn bè hiểu biết về âm nhạc đặc trưng Nam Bộ. Ông được xem như
người đặt nền móng vững chắc để hơn gần nửa thế kỷ sau UNESCO công nhận ĐCTTNB
là DSVHPVTCNL...
Vì vậy, GS.TS Trần Văn
Khê không tiếc lời khen tặng: “Chưa có nhạc sư nào có nhiều học trò trong và
ngoài nước bằng ông. Cũng chưa có nhạc sư nào vừa có tài đờn hay lại vừa đóng
đàn khéo như ông”.
“Ông là “di sản sống”-
xin mượn lời nhà báo Olivier (Pháp) để khép lại bài viết như sự tự hào về vị
“hậu tổ” của ĐCTTNB.